Văn hóa ẩm thực Việt Nam luôn nhận được rất nhiều sự chú ý, không chỉ từ người dân trong nước mà còn là bạn bè Quốc tế và các chuyên gia ẩm thực. Không chỉ các món ăn mặn được ưa chuộng mà các món ăn chay cũng thường xuất hiện trong mâm cơm của người Việt Nam. Món chay được chế biến đơn giản, không cầu kỳ nhưng vẫn đầy đủ dinh dưỡng và đặc biệt tốt cho sức khỏe người dùng. Với lịch sử hình thành và phát triển lâu đời, ẩm thực chay ở nước ta ngày càng được nhiều người yêu thích và sử dụng nhiều hơn. Qua đó góp phần lưu giữ và phát huy nét văn hóa truyền thống đẹp này của người Việt.
Ăn chay trở thành một nét đẹp văn hóa trong ẩm thực Việt
Ăn chay là tập tục tín ngưỡng, văn hóa truyền thống lâu đời của các nước Á Đông. Trong đó có Việt Nam. Ngày nay không nhất thiết người tu hành mà bất cứ ai cũng có thể tìm tìm đến đồ ẩm thực chay. Họ xem đây như một phương pháp chữa bệnh, giữ gìn sức khỏe và làm sạch tâm hồn. Ăn chay, gốc từ chữ Hán là Trai. Tức là giữ lòng được trong sạch. Xưa, có lệ trai giới. Mỗi khi cầu nguyện với đất trời hay có việc tế tự trước 3 ngày ăn uống đồ chay (gọi là Trai). Thực hiện trước 7 ngày để giữ gìn thành kính tâm niệm việc mình cầu nguyện (gọi là Giới).
Ăn chay giờ đây không chỉ dành cho các nhà tu hành mà đã trở thành xu hướng trong xã hội. Ngoài vấn đề về ẩm thực, người ta còn ăn chay để tìm kiếm sự bình yên. Và cũng là tìm cho mình một nơi thích hợp để tịnh tâm suy nghĩ, giải thoát những phiền muộn của cuộc sống hiện đại. Dùng ẩm thực chay cũng là cách để bảo vệ, giữ gìn sức khỏe khi ngày càng có nhiều bệnh tật đeo bám. Tránh xa những thực phẩm độc hại, những loại thịt cá không đảm bảo cho sức khoẻ của bản thân và của người thân. Và đây cũng là một yếu tố góp phần để bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó là bảo vệ những loài sinh vật đang dần bị mai một bởi vì chính con người.
Nguồn gốc văn hóa ăn chay của người Việt
Văn hóa ăn chay của người Việt xuất hiện từ lâu đời và được duy trì cho đến ngày nay. Thời phong kiến trước khi tế trời ở Đàn Nam Giao, nhà vua sống biệt lập, cử ăn thịt cá ba ngày, không được gần gũi cung phi, mỹ nữ. Ngày nay, nhiều người tuy không đến chùa Phật để quy y Tam Bảo cũng nguyện ăn chay. Vì lý do đó.Vả hoặc ông bà cha mẹ ăn chay, con cháu giữ lệ cũng ăn theo, để báo hiếu. Cũng có trường hợp ăn chay để ngừa cao huyết áp. Ăn những món thực vật để giảm lượng cholesterol trong máu.
Theo tập quán lâu đời, rất nhiều phật tử, tín đồ Cao Đài, Hòa Hảo, dù chưa ăn chay trường, nhân lễ hội Vu Lan tháng 7 âm lịch thường lập nguyện ăn chay trọn tháng hay nửa tháng. Bà con cho đó là hồi hướng công đức để báo hiếu. Thật ra, thuở Phật giáo sơ khai, những người xuất gia vẫn được ăn thịt cá không phải chính họ sát sinh… Nhưng đến hồi Phật giáo thịnh hành, các nhà Phật học phái Đại Thừa tuyệt đối không ăn thịt cá.
Ở nước ta ăn chay thịnh hành từ thời Lý – Trần. Huế đến thời chúa Nguyễn Phúc Chu (1691 – 1725) trở thành thủ phủ của Phật giáo. Tục ăn chay phổ biến trong cả tầng lớp quý tộc. Vì thế ở Huế việc nấu các món chay, cỗ chay khá đặc sắc, cầu kỳ. Đặc biệt là có những yêu cầu cao hơn so với các nơi khác.
Sự kết hợp hài hòa các loại thực phẩm trong ẩm thực chay
Văn hóa ăn chay của người Việt ngày nay đã phổ biến hơn trước rất nhiều. Từ nhiều năm nay, ngay cả những đám cưới, đồ ăn chay, cỗ chay đã xuất hiện ngày một nhiều. Có thể sánh vai cũng với những món mặn khác. Các bữa cỗ chay, buffet chay cũng phổ biến rộng rãi và thường xuyên hơn trước. Đặc biệt là có số lượng món ăn nhiều hơn. Nguyên liệu sử dụng để nấu cỗ chay đang ngày càng trở nên nhiều chủng loại hơn. Sự sáng tạo tìm tòi của đầu bếp để đồ ăn chay trở nên phong phú hơn. Làm cho văn hóa ăn chay trở nên gần gũi, thân thiện hơn đối với người Việt. Nhất là những người đến với ẩm thực chay với một sự tò mò.
Để làm được một mâm cỗ chay, người ta phải mất gấp đôi thời gian so với nấu cỗ mặn. Đầu bếp phải bỏ ra nhiều công phu, sự tỉ mỉ và chu đáo hơn để mâm cỗ chay hoàn hảo. Các món ăn ngập tràn màu sắc rực rỡ nhưng không hề có mùi cá thịt. Chẳng hạn như món gà được là từ gốc sả nhồi tàu hũ non, lăn bột chiên giòn thơm phức. Hay chả lụa bằng quả chuối nấu chín, bóc vỏ, giã nhỏ với gia vị, bột thính, trộn đều với bí đao thái nhỏ, gói lá chuối đem hấp… Tất cả những món ăn đều được biến tấu từ các loại đậu, các loại rau, củ. Nó tạo nên những hương vị khác nhau mà không nhàm chán khi biết kết hợp các thực phẩm và nêm nếm hài hòa các gia vị.
Lợi ích bất ngờ của việc ăn chay mang lại
– Tìm đến đồ ăn chay như một sự thưởng thức một nét ẩm thực đặc biệt. Nó khác biệt hoàn toàn với những sơn hào hải vị đã chán ngán và không có lợi cho sức khỏe. Ăn chay để làm thanh tịnh tâm hồn sau những lo toan trăn trở, bộn bề của cuộc sống. Qua đó có được chút thư giãn của tâm linh thật quý giá vô ngần. Giúp cuộc sống giản đơn, thanh cao mà năm tháng ít dành được sự bình tâm nhằm trở lại với cội nguồn của niềm an lạc.
– Ăn chay để tìm đến thú ẩm thực nhẹ nhàng mà nâng đỡ tâm hồn qua bữa cơm chay thanh đạm. Qua đó giúp con người hướng đến bản, nguyện nguyên thủy. Ăn chay để bảo vệ, giữ gìn sức khỏe khi có ngày càng nhiều bệnh tật đeo bám con người. Tránh xa những thực phẩm độc hại. Hoặc những loại thịt cá không đảm bảo cho sức khoẻ của bản thân và của người thân.
– Ngoài ra, ẩm thực chay cũng là lựa chọn của những người mong muốn có một chế độ ăn uống hợp lý để sở hữu cho mình một vóc dáng thon, đẹp, ngăn ngừa căn bệnh béo phì và lão hóa, do trong khẩu phần ăn của họ không chứa dầu mỡ, các chất béo và chất gây lão hóa. Về tâm linh, đây cũng là một trong những cách rèn luyện bản thân để hướng đến những giá trị nhân bản của cuộc sống. Người ta ăn chay để thành tâm hướng thiện và để cầu an. Bên cạnh đó là giữ cho mình một tâm hồn thanh tịnh giữa cuộc sống ồn ào, náo nhiệt.
Độ phổ biến của ẩm thực chay trong cuộc sống hiện nay
Ăn chay đã trở thành một nét văn hóa đẹp trong văn hóa ẩm thực người Việt. Những bữa cơm chay đã xuất hiện ngày một nhiều trong những bữa cơm của gia đình Việt. Giới trẻ đã tiếp cận với văn hóa này nhiều hơn. Khái niệm ăn chay không còn trở nên lạ lẫm với những người trẻ tuổi. Họ tìm đến những bữa cơm chay với một sự tò mò. Lâu dần những bữa ăn chay đã trở thành một điểm đến thường xuyên.
Nấu món chay là cả một quá trình làm nghệ thuật. Trong đó có sự kết hợp, đan xen giữa nghệ thuật ẩm thực và nghệ thuật tạo hình để mang lại những món ăn bắt mắt, hấp dẫn. Món chay không những thanh đạm, ngon, rẻ, tốt cho sức khỏe mà còn có hình thức đẹp, bày biện tinh tế.
Tìm đến những bữa ăn chay giờ đây đã không chỉ là thưởng thức những món ăn đặc biệt, những món ăn thanh đạm mà là còn là sự trải nghiệm, là để lắng nghe những câu chuyện về phật, về nhân quả của con người. Lắng nghe để cảm nhận, để chiêm nghiệm lại cuộc đời, chiêm nghiệm bản thân. Từ đó tìm cho mình một con đường đi đúng đắn hơn, làm tâm hồn trở nên thanh sạch hơn. Đó là những điều mà có lẽ không có nét văn hóa ẩm thực nào làm được ngoài văn hóa ăn chay.